Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh HIV/AIDS? HIV AIDS lây qua đường nào ?

 

Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh HIV/AIDS

HIV có mấy giai đoạn? Nhiễm HIV có 3 giai đoạn, các triệu chứng tương ứng với từng giai đoạn cụ thể của bệnh như sau:

Giai đoạn nhiễm trùng cấp tính (hay còn gọi là nhiễm trùng tiên phát):

Ban đầu, khi nhiễm HIV nguyên phát có thể không có các triệu chứng hoặc gây ra các triệu chứng không đặc hiệu tạm thời (hội chứng nhiễm virus cấp tính).

Giai đoạn này là khi mà người bệnh vừa tiếp nhận các chất dịch cơ thể từ người bị nhiễm trước đó, virus trong giai đoạn này nhân lên rất nhanh và dẫn đến có nhiều virus trong máu ngoại biên. Ở giai đoạn này, mức HIV có thể lên tới vài triệu virus trong mỗi ml máu.

Phản ứng này sẽ đi kèm với việc lượng tế bào T-CD4+ bị giảm đáng kể. Trong tất cả các bệnh nhân, thực tế mức virus này là do sự hoạt hóa của các tế bào T-CD8+ đã giết chết các tế bào bị nhiễm virus HIV, sau đó hình thành các kháng thể hoặc biến đổi huyết thanh. Phản ứng của tế bào T-CD8+ được cho là rất quan trọng trong việc kiểm soát mức virus từ cao trở thành suy giảm dần, và hồi phục số lượng tế bào T-CD4+. Phản ứng của tế bào T-CD8+ tốt sẽ làm quá trình tiến triển của bệnh chậm hơn và việc dự đoán bệnh tốt hơn, mặc dù nó không có khả năng loại trừ được virus.

Trong thời gian từ 2-4 tuần sau khi phơi nhiễm, hầu hết các bệnh nhân (80-90%) sẽ bị mắc bệnh cúm hoặc một bệnh gần giống như bệnh bạch cầu đơn nhân, hay gọi chung là nhiễm HIV cấp tính, có thể có các triệu chứng phổ biến như sốt, nổi hạch, viêm họng, phát ban, đau cơ, khó chịu, lở miệng và thực quản. Một số triệu chứng ít phổ biến hơn như nhức đầu, buồn nôn và nôn, sưng gan hoặc lá lách, giảm cân, bệnh tưa miệng và các triệu chứng thần kinh. Tùy từng người bị nhiễm bệnh mà có thể có 1 hoặc vài triệu chứng này, cũng có trường hợp không xuất hiện một triệu chứng nào. Thời gian của các triệu chứng khác nhau, trung bình sẽ kéo dài trong 28 ngày và ngắn nhất có thể là một tuần.

Vì các tính chất không rõ ràng của các triệu chứng này nên bệnh nhân thường không nhận ra dấu hiệu của nhiễm HIV. Kể cả khi bệnh nhân đi khám bác sĩ hay bệnh viện, họ cũng có thể bị chẩn đoán nhầm là mắc một trong các bệnh nhiễm khuẩn thông thường với các triệu chứng tương tự. Việc này sẽ dẫn tới hệ quả là các triệu chứng tiên phát này sẽ không được dùng để chẩn đoán nhiễm HIV, vì không phải tất cả các trường hợp bị nhiễm HIV đều xuất hiện các triệu chứng này và phần lớn lại giống với triệu chứng của các bệnh thông thường khác. Tuy nhiên, việc nhận biết hội chứng có thể quan trọng, bởi vì ở giai đoạn này bệnh nhân có thể dễ lây bệnh cho nhiều người.

triệu chứng của HIV/aids
triệu chứng của HIV/aids

Giai đoạn mãn tính (giai đoạn tiềm ẩn):

Đây là giai đoạn hệ miễn dịch bảo vệ mạnh mẽ sẽ làm giảm số lượng của các hạt virus trong máu, rồi chuyển sang giai đoạn nhiễm HIV mãn tính.

Giai đoạn này có thể kéo dài từ 2 tuần cho đến 20 năm tùy từng trường hợp, trong suốt khoảng thời gian này HIV sẽ hoạt động trong các hạch bạch huyết nên các hạch này thường xuyên bị sưng do có phản ứng với một lượng lớn virus bị kẹt ở trong mạng lưới các tế bào tua hình nang (FDC). Ở các mô giàu tế bào CD4+ xung quanh cũng có khả năng bị nhiễm bệnh, các hạt virus tích tụ lại cả trong các tế bào bị nhiễm và ở dạng virus tự do.

Bệnh nhân vẫn khả năng lây bệnh ở trong giai đoạn này, tế bào T CD4+ CD45RO+ mang tải lượng virus nhiều nhất, và việc bắt đầu điều trị sớm kháng retrovirus sẽ giúp cải thiện thời gian sống đáng kể.

Giai đoạn AIDS (giai đoạn cuối của bệnh):

Giai đoạn này sẽ xảy ra khi số lượng các tế bào CD4+ bị giảm xuống dưới mức 200 tế bào trên 1uL máu, dẫn tới sự miễn dịch qua trung gian tế bào bị vô hiệu và xuất hiện các hiện tượng nhiễm trùng do một loạt các vi sinh vật cơ hội gây ra.

Khởi phát của các triệu chứng có thể là tình trạng bị giảm cân vừa phải và không giải thích được, nhiễm trùng đường hô hấp tái phát gây ra viêm phế quản, viêm họng, viêm tai giữa hoặc là gây viêm da, loét miệng, phát ban da.

Nhiễm trùng cơ hội và các khối u phổ biến ở người bình thường sẽ bị các tế bào miễn dịch trung gian CD4+ khống chế rồi sau đó mới ảnh hưởng đến người bệnh. Việc mất sức đề kháng nhanh sẽ là nguy cơ nhanh chóng bị nhiễm vi nấm Candida species gây nấm ở miệng hoặc nhiễm vi khuẩn hiếu khí Mycobacterium tuberculosis gây bệnh lao. Sau đó, các virus herpes tiềm ẩn sẽ được kích hoạt và gây ra các tổn thương ngày càng nặng và đau đớn như herpes simplex, bệnh zona, ung thư hạch bạch huyết do virus Epstein-Barr và ung thư Kaposi’s sarcoma…

Viêm phổi do nấm Pneumocystis jirovecii cũng khá phổ biến và thường gây tử vong.

Không phải ở tất cả các bệnh nhân AIDS đều bị tất cả các bệnh nhiễm trùng cơ hội hay các khối u trên, có thể có các loại khối u và các bệnh nhiễm trùng khác nhưng ít nổi bật hơn nhưng vẫn đáng kể.

HIV lây qua đường nào?

Con đường lây truyền của HIV là qua các chất dịch của cơ thể bao gồm máu, tinh dịch, dịch âm đạo và trực tràng và sữa mẹ.

Nhiễm virus HIV chỉ xảy ra khi có một hoặc nhiều chất dịch nêu trên của người mắc bệnh xâm nhập vào trong máu của bạn. Điều này có thể xảy ra qua chỗ da bị vỡ, tổn thương hoặc lớp lót trong miệng, hậu môn, dương vật hoặc âm đạo. Vì vậy, mọi người thường bị nhiễm HIV do 3 phương thức hay đường lây truyền chính của HIV, trong đó HIV-2 có xác suất truyền qua đường từ mẹ sang con và quan hệ tình dục ít hơn so với HIV-1.

Lây truyền qua đường tình dục

HIV phần lớn lây qua đường quan hệ tình dục không không an toàn. Người ta đã ước tính được tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trên thế giới qua đường tình dục chiếm khoảng 75% tổng số người bị nhiễm HIV/AIDS. Việc chủ quan đối với HIV đóng một vai trò rất quan trọng trong nguy cơ lây bệnh. Lây qua đường tình dục có thể xảy ra khi niêm mạc sinh dục, miệng, hoặc trực tràng của bạn tiếp xúc với chất tiết sinh dục của bạn tình có chứa virus HIV. Nguy cơ lây nhiễm qua một lần giao hợp với người bị nhiễm HIV sẽ là từ 0,1% đến 1%. Ở các quốc gia phát triển, nguy cơ nữ lây bệnh cho nam là 0.04% cho mỗi lần quan hệ và nam truyền cho nữ là 0.08%. Vì các lý do khác nhau mà nguy cơ này sẽ cao hơn từ 4 đến 10 lần ở các nước kém phát triển. Người nào có nhiều bạn tình và quan hệ tình dục không an toàn thì nguy cơ lây nhiễm HIV càng cao. Những người mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục như giang mai, lậu… đều làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV lên gấp 20 lần.

Qua phân tích từ các nghiên cứu về việc sử dụng bao cao su cho thấy rằng nếu sử dụng bao cao su đúng cách sẽ làm giảm khoảng 85% nguy cơ lây nhiễm qua đường tình dục của HIV. Tuy nhiên, chất diệt tinh trùng thực sự có thể làm tăng tỷ lệ lây nhiễm.

Theo báo cáo về các nghiên cứu trong năm 2007 của Cochrane Collaboration, thì các chương trình với mục đích khuyến khích việc tiết chế tình dục trong giới trẻ ở các nước phát triển, đồng thời thực hiện các chiến lược cổ động và giáo dục tình dục an toàn vói các đối tượng đã có quan hệ tình dục, có thể làm giảm ngắn hạn và dài hạn những hành vi có rủi ro lây nhiễm HIV.

Lây truyền qua đường máu

HIV có mặt trong máu toàn phần và các thành phần của máu như hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương và các yếu tố đông máu. Vì thế, HIV có thể lây truyền qua máu hay các sản phẩm của máu có nhiễm HIV. Nguy cơ lây truyền qua đường máu có tỷ lệ rất cao trên 90%. Từ năm 1985, sau khi có các xét nghiệm sàng lọc để phát hiện kháng thể kháng HIV, thì nguy cơ lây truyền theo đường máu ở nhiều nước đã giảm đi rõ rệt. Tuy nhiên, một số trường hợp ngay cả khi xét nghiệm máu cho kết quả âm tính thì vẫn có khả năng lây nhiễm HIV, do máu được lấy từ người mới bị nhiễm HIV, người đó đang trong “thời kỳ cửa sổ” của quá trình nhiễm HIV. Nguy cơ này xảy ra nhiều ở những nơi có tỷ lệ nhiễm HIV cao, đặc biệt là ở những nơi người cho máu chuyên nghiệp cao và họ thường thay đổi địa điểm để cho máu.

Các vết thương hở khi tiếp xúc với máu bị nhiễm HIV thì sẽ bị lây truyền. Các đối tượng dễ bị lây nhiễm HIV qua đường máu là những người tiêm chích ma túy, những bệnh nhân bị rối loạn đông máu do di truyền (bệnh ưa chảy máu) hay người nhận trong quá trình truyền máu (dù hầu hết ở các nước thì trước khi truyền máu đều được xét nghiệm HIV) và các sản phẩm máu. Lây truyền HIV qua đường máu cũng là một vấn đề đáng lo ngại đối với những người được chăm sóc y tế tại các khu vực có điều kiện vệ sinh không đạt tiêu chuẩn thông thường trong việc dùng các dụng cụ tiêm chích như việc tái sử dụng kim tiêm ở các nước thế giới thứ ba.

HIV cũng có thể truyền qua các dụng cụ xuyên, chích qua da chưa được tiệt trùng như là bơm kim tiêm (tiêm chích ma túy), kim xâu tai, dao cạo râu…khi các dụng cụ đó có HIV.

Lây truyền trong chăm sóc y tế: Các nhân viên y tế như y tá, nhân viên phòng thí nghiệm hay các bác sĩ cũng là đối tượng rủi ro cao, dù hiếm xảy ra hơn. Kể từ khi việc lây truyền HIV qua đường máu được phát hiện thì các nhân viên y tế cần phải sử dụng các biện pháp dự phòng để bảo vệ mình không tiếp xúc với máu. Trong quá trình xăm hình, xâu khuyên hay rạch da thì cả người thực hiện và người được làm đều dễ bị lây nhiễm HIV qua đường máu.

HIV được tìm thấy trong nước bọt, nước mắt, và nước tiểu của các cá nhân bị nhiễm bệnh có nồng độ thấp, nhưng không có trường hợp nào được ghi nhận bị lây nhiễm bởi các chất tiết này và nguy cơ tiềm năng lây truyền là không đáng kể. Muỗi không có khả năng truyền HIV.

Lây truyền từ mẹ sang con

Việc lây truyền virus HIV từ mẹ sang con có thể xảy ra trong tử cung đối với thời kỳ mang thai, trong quá trình chuyển dạ đối với giai đoạn sinh con hoặc qua việc cho con bú. Trong trường hợp nếu không điều trị, tỷ lệ lây truyền từ mẹ và con lên đến khoảng 25%. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa điều trị bằng thuốc kháng virus và mổ lấy thai thì nguy cơ này có thể giảm xuống thấp khoảng 1%. Sau khi sinh thì có thể ngăn ngừa lây truyền bằng cách tránh nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, điều này lại liên quan đến các bệnh khác. Cho con bú bằng sữa mẹ và cung cấp điều trị dự phòng kháng virus mở rộng cho trẻ sơ sinh cũng có hiệu quả trong việc tránh lây nhiễm. UNAIDS ước tính có khoảng 430.000 trẻ bị nhiễm HIV trên toàn thế giới trong năm 2008 (19% là các ca nhiễm mới), chủ yếu là lây truyền từ mẹ sang con, và 65.000 ca lây nhiễm đã được ngăn chặn nhờ việc cung cấp điều trị dự phòng kháng virus cho phụ nữ nhiễm HIV dương tính.

https://docs.google.com/spreadsheets/d/1uus7_r5PYZgZ4dn_d-YfpXi1vNPIGViRhknHUMdkd2c/edit#gid=196283469

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thuốc Gardenal 100mg

Thuốc Trivastal 50 mg

Thuốc Pruzena